Quá trình hình thành lịch vạn niên
Xuất xứ của tục chọn ngày chọn giờ
Tìm điều lành, tránh điều dữ thuộc bản năng của con người
Do trình độ và nhận thức, con người cổ sơ chưa thể nào hiểu nổi những hiện tượng thiên nhiên. Thiên nhiên đã cho ta sự sống, cho ta nước uống, thức ăn, không khí, ánh sáng, hơi nóng v.v... nhưng bao nhiêu tai hoạ dồn dập đe doạ cuộc sống con người: hạn hán, bão lụt, sấm sét, giông tố, dịch bệnh, thú dữ v.v... cũng do thiên nhiên đưa tới. Khi xã hội có giai cấp xuất hiện, con người cổ sơ cũng chưa thể nào hiểu nổi: tại sao thân phận từng người lại khác nhau? kẻ đàn áp bóc lột, độc ác tàn bạo được hưởng phú quý, người nô lệ chịu cảnh khốn khổ, bần cùng, các tập đoàn người còn gây chiến tranh tàn phá lẫn nhau, bao nhiêu cảnh chết chóc bất ngờ ập tới. Không giải thích nổi, họ đành quy mọi mối vào tạo hoá. Tạo hoá theo quan niệm thời nay là mọi thiên thể trong vũ trụ, là môi trường thiên nhiên và xã hội, nhưng theo quan niệm thời xưa là các thế lực siêu nhiên, là ông trời dưới ông trời là một loạt thiên thần ác quỷ, mỗi thiên thần cai quản một việc hoặc một vùng phân dã dưới bầu trời. Trời ban phước cho ai người nấy hưởng, trời trao chức quyền cho ai, người ấy được cai trị kẻ dưới, trời gieo vạ cho ai thì người ấy phải chịu. Bao chuyện bất công trong đời chỉ biết van trời.
Do bản năng sinh tồn, con người phải tìm lẽ sống, tìm cách duy trì và phát triển nòi giống, vươn lên làm chủ muôn vật trên trái đất. Nhu cầu được thu hái sản phẩm, ăn no, mặc ấm, được ở yên, được đi lại bình yên, chống đỡ các bệnh tật tai hoạ là những nhu cầu cơ bản thuộc bản năng sinh vật. Tâm lý chung của xã hội loài người: Tìm điều lành, tránh điều dữ xuất phát từ bản năng nói trên và di truyền từ đời này sang đời khác. Đó là điểm xuất phát chung của các loại hình tôn giáo, các loại hình bói toán và các thuật chọn ngày giờ lành dữ.
Có ngày tốt ngày xấu không?
Thực tế có ngày làm mọi việc dều thắng lợi, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới, ngược lại có ngày vất vã sớm chiều chẳng được việc gì, lại còn gặp tai nạn bất ngờ. Người ta muốn hỏi: Vì sao vậy? Phép duy vật biện chứng giải thích: Đó là quy luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Lý luận thì như vậy, nhưng người ta muốn biết cụ thể: Làm sao đón trước những yếu tố ngẫu nhiên tốt và tránh những yếu tố ngẫu nhiên xấu? Cụ thể: Tháng này cưới vợ thì nên chọn ngày nào thì tương lai duyên ưa phận đẹp, làm nhà nên chọn ngày nào thì con cháu sum vầy, gia đình làm ăn nên nổi, an táng nên chọn giờ nào, tránh giờ nào, để cầu được phúc đức, tránh được tai vạ về sau. Vì vậy người ta phải tìm thầy, tìm sách để xem ngày, chọn giờ.
Nhưng xem trong Hiệp kỷ lịch không có ngày nào hoàn toàn tốt hay xấu cho mọi người, mọi việc, mọi địa phương.
Thực tế, trên chiến trường , thời điểm ta thắng thì địch thua, trên thương trường anh mất thì người khác được của. Trời mưa lợi cho việc đồng áng, ruộng vườn thì bất lợi cho việc xây nhà hay đi đường v.v... Như vậy, ngày tốt ngày xấu còn tuỳ thuộc vào từng người, từng việc, từng hướng, từng vùng.
Ngày tốt ngày xấu còn tuỳ thuộc theo quan niệm của từng người.
Ví dụ mất của là điều không may, nhưng để an ủi người mất của, người ta phải bảo đó là điều may vì "của đi thay người".
Ngày Nguyệt kỵ tức mồng năm, mười bốn, hăm ba, ta cho là ngày xấu, kiêng kỵ xuất hành. Nhưng tránh được ngày nguyệt kỵ lại đến ngày Tam nương (13 tam nương, 14 nguyệt kỵ, 22 tam nương, 23 nguyệt kỵ), nếu có việc cần kíp thì sao?
Có người cho rằng: Ngày xấu thiên hạ kiêng không xuất hành, thì đối với mình càng tốt vì ngoài đường đỡ chen chúc nhau, xe tàu rộng chỗ, đỡ tai nạn giao thông.
Ngày Nguyệt kỵ: trong phong tục, mọi miền ở đất nước ta đều cho là ngày xấu, nhưng có thuyết cho rằng đó là ba ngày tốt nhất trong cả tháng. Bởi vậy ngày xưa vua chúa chọn 3 ngày đó di du ngoạn. Vua chúa đi đâu cũng có quan lính dẹp đường, tiền hô, hậu ủng. Dân chúng không được nhìn mặt vua chúa, phải cúi rạp hai bên vệ đường, cho cho xa giá đi qua mới được đứng dậy. Muốn được việc phải tìm dường khác đi cho nhanh, đỡ mất thì giờ nhiều khi họ phải bỏ việc quay trở về. dần dần trở thành phong tục nhân dân tránh ba ngày mồng năm, mười bốn, hăm ba của từng tháng, gọi 3 ngày đó là Nguyệt kỵ (ngày kiêng xuất hành của từng tháng) Ngày tốt với kẻ cao sang, nhưng trở thành ngày xấu của dân thường. Khi đã chọn ngày tốt đối với từng sự việc, theo thuật chiêm tinh, còn phải đối chiếu ngày đó có hợp với bản mệnh của chủ sự hay không? cụ thể, phải xem ngày đó thuộc hàng can, hàng chi nào? có tương xung, tương khắc, tương hình, tương hại với bản mệnh can chi của người chủ sự hay không?
Bác sĩ Vũ định, trong bài có "ngày tốt, ngày xấu không?" (Báo Hà Nội mới, chủ nhật, 73) có nêu lên lập luận về nhịp sinh học của từng cá thể:
"Nếu biết ngày tháng năm sinh của mỗi người, có thể xác định được các chu kỳ thể lực, chu kỳ trí tuệ, chu kỳ tình cảm của người đó. Cả ba chu kỳ đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Số ngày trùng hợp với điểm chuyển tiếp các chu kỳ là ngày xấu, có thể coi là vận hạn của người đó".
Lập luận trên phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các chức năng của cơ thể... ta thử vận dụng lập luận về nhịp sinh học từng cá thể như đã nêu trên để phân tích ngày giờ hợp hay xung khắc với bản mệnh từng người trong thuật chiêm tinh có cùng luận cứ khoa học hay không?
Chọn ngày giờ và bói toán khác nhau
Các thuật sĩ làm nghề bói toán và chọn ngày chọn giờ đều có tên chung là các nhà chiêm tinh hay các nhà âm dương học. Nhưng bói toán và chọn ngày thuộc 2 giai đoạn, hai lĩnh vực khác nhau trong tư duy con người.
Con người muốn biết tương lai thân phận mình ra sao, sắp tới vận hạn rủi may như thế nào, họ không nắm được quy luật thiên nhiên và xã hội, họ chỉ biết dựa vào thuật bói toán. Bói toán khi chưa có chủ định, chưa có phương hướng, chưa biết vận hội ra sao, việc thành bại thế nào.
Khác với thuật bói toán, khi người chủ sự muốn chọn ngày chọn giờ, tức là họ đã có chủ định, đã chuẩn bị kế hoạch, định làm việc gì đã chuẩn bị sẵn cơ sở vật chất, hay ít ra cũng có dự án phác thảo, duy còn phân vân "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" (con người chủ  động mưu tính công việc, việc làm đó thành hay bại còn do trời), có nghĩa là con người đã tự khẳng định nội lực của mình, họ chỉ muốn biết tiến hành trong thời cơ nào thì thuận lẽ trời, dễ đi đến thành công, tránh được tai hoạ.
Vì sao tục chọn ngày giờ tồn tại lâu đời?
Xuất phát từ bản năng thành tâm lý phổ biến trong quần chúng, mọi việc làm đều có thành, có bại. Không phải mọ người đều tin rằng yếu tố quyết định thành bại là do chọn ngày chọn giờ. Có người không tin vào thuật chiêm tinh, cho đó là điều nhảm nhí, nhưng chiều theo tâm lý chung của nhiều người trong gia đình họ hàng, xét thấy chẳng có hại gì nên cũng chọn ngày, chọn giờ. Đối với một người trong 1 năm, 1 năm... làm sao tránh được rủi ro bất ngờ, huống chi với cả nhà, cả họ. Hễ khi ai đó xảy ra tai nạn, họ đổ lỗi cho người chủ sự báng bổ, không chịu chọn ngày, chọn hướng.
- Chỉ có lợi không có hại:
Chọn ngày chọn giờ là một tục lệ biểu hiện sự thành kính, thận trọng, nghiêm trang, không tuỳ tiện, không cẩu thả trước trong và sau khi tiến hành một công trình, do đó dễ được sự đồng tình của những người có liên quan, đối tác.
- Có một luận thuyết để tin cậy:
Thuật chiêm tinh đúng hay sai, luận thuyết mình tuân theo đáng tin cậy hay không chỉ có người đi sâu nghiên cứu mới xác định được, tuy rằng "vô sư, vô sách, quỷ thần bát trách" nhưng có vẫn còn hơn không, nếu có sai sót gì đổ lỗi cho thầy, đã có thầy mang tội, người chủ sự đỡ lo.
Vì những lẽ trên mà tục chọn ngày chọn giờ chẳng những tồn tại lâu đời, mà lan truyền phổ biến ngày càng rộng. Các thuyết chiêm tinh qua từng thời kỳ, từng địa phương có thể phủ định loại bỏ nhau, nhưng tục chọn ngày chọn giờ nói chung vẫn chưa hề bị mai một.
Bài tiếp theo: Quá trình diễn biến lịch sử của phép chọn ngày chọn giờ ở nước ta mời bạn đọc theo dõi tiếp ở các bài sau.
(trích Tân Việt, Thiều phong. Bàn về lịch vạn niên, Văn hoá dân tộc,Hà Nội,1997)